Câu
hỏi 5. Phân tích lượng giá trị của hàng hoá và các yếu tố ảnh hưởng đến lượng
giá trị của hàng hoá?
Đáp. Cõu trả lời gồm hai ý lớn
1) Lượng giá trị của hàng hoá. Giá trị của hàng hoá là do lao động xó hội, lao
động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra
hàng hoá đó. Trên thực tế có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng
điều kiện sản xuất, trỡnh độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời
gian lao động để sản xuất ra hàng hoá không giống nhau, tức hao phí lao động cá
biệt khác nhau. Vỡ vậy, lượng giá trị hàng hoá không phải tính bằng thời gian
lao động cá biệt, mà tính bằng thời gian lao động xó hội cần thiết.
Thời gian lao động xó hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra
một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bỡnh thường của xó hội với
trỡnh độ trang thiết bị trung bỡnh, với trỡnh độ thành thạo trung bỡnh và cường
độ lao động trung bỡnh trong xó hội đó. a) Trỡnh độ thành thạo trung bỡnh tức
trỡnh độ nghề, trỡnh độ kỹ thuật, mức độ khéo léo của đại đa số người cùng sản
xuất mặt hàng nào đó. b) Cường độ lao động trung bỡnh là cường độ lao động
trung bỡnh trong xó hội, sức lao động phải được tiêu phí với mức căng thẳng
trung bỡnh, thụng thường. c) Điều kiện bỡnh thường của xó hội tức là muốn núi
dựng cụng cụ sản xuất loại gỡ là phổ biến, chất lượng nguyên liệu để chế tạo
sản phẩm ở mức trung bỡnh.
Cũng cần chỳ ý rằng, trỡnh độ thành thạo trung bỡnh, cường độ trung bỡnh, điều
kiện bỡnh thường của xó hội đối với mỗi nước, mỗi ngành là khác nhau và thay
đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thông thường, thời gian lao động xó hội cần thiêt gần sát với thời gian lao
động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của người sản xuất hàng hoá nào
cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường. Thời gian lao động xó hội cần
thiết là một đại lượng không cố định, do đó lượng giá trị hàng hoá cũng không
cố định. Khi thời gian lao động xó hội cần thiết thay đổi thỡ lượng giá trị của
hàng hoá cũng thay đổi.
Như vậy chỉ có lượng lao động xó hội cần thiết, hay thời gian lao động xó hội
cần thiết để sản xuất ra hàng hoá, mới là cái quy định đại lượng giá trị của
hàng hoá ấy.
2) Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá
Do thời gian lao động xó hội cần thiết luụn thay đổi, nên lượng giá trị của
hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào
năng suất lao động và mức độ phức tạp hay đơn giản của lao động
a) Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động được đo bằng lượng sản phẩm
sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng
trong thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hoá sản xuất ra tăng lên làm
cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá giảm xuống.
Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thỡ giỏ trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch
với năng suất lao động.
Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trỡnh độ khéo léo (sự
thành thạo) trung bỡnh của người công nhân; mức độ phát triển của khoa học,
công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất; trỡnh độ tổ chức
quản lý, quy mô và hiệu xuất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
b) Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động có tác động khác nhau đối
với lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, nặng nhọc
của lao động trong cùng một thời gian lao động nhất định và được đo bằng sự
tiêu hao năng lực của lao động trên một đơn vị thời gian và thường được tính
bằng số calo hao phí trong một thời gian nhất định. Cường độ lao động tăng lên
tức là mức hao phí cơ bắp, thần kinh trên một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ
khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ lao
động tăng lên thỡ số lượng (hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và
sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng cũn lượng giá trị của một đơn vị
hàng hoá vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời
gian lao động.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau ở chỗ chúng đều
dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng
chúng cũng khác nhau ở chỗ tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng
hoá) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho lượng giá
trị của một đơn vị hàng hoá giảm xuống. Hơn nữa, tăng năng suất lao động có thể
phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật, do đó nó gần như một yếu tố có “sức sản
xuất” vô hạn; cũn tăng cường độ lao động tuy có làm cho lượng sản phẩm sản xuất
ra tăng lên, nhưng không làm thay đổi giá trị của một đơn vị hàng hoá. Hơn nữa,
tăng cường độ lao động phụ thuộc vào thể chất và tinh thần của người lao động,
do đó nó là yếu tố của “sức sản xuất” có giới hạn. Chính vỡ vậy, tăng năng suất
lao động cú ý nghĩa tớch cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.
b) Tính chất của lao động. Lao động giản đơn và lao động phức tạp
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bỡnh thường không cần phải
qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đũi hỏi
phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động
giản đơn. Tuy nhiên để tiến hành trao đổi hàng hoá, mọi lao động phức tạp đều
được quy thành lao động giản đơn trung bỡnh trờn cơ sở lao động phức tạp bằng
bội số của lao động giản đơn.
hỏi 5. Phân tích lượng giá trị của hàng hoá và các yếu tố ảnh hưởng đến lượng
giá trị của hàng hoá?
Đáp. Cõu trả lời gồm hai ý lớn
1) Lượng giá trị của hàng hoá. Giá trị của hàng hoá là do lao động xó hội, lao
động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra
hàng hoá đó. Trên thực tế có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng
điều kiện sản xuất, trỡnh độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời
gian lao động để sản xuất ra hàng hoá không giống nhau, tức hao phí lao động cá
biệt khác nhau. Vỡ vậy, lượng giá trị hàng hoá không phải tính bằng thời gian
lao động cá biệt, mà tính bằng thời gian lao động xó hội cần thiết.
Thời gian lao động xó hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra
một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bỡnh thường của xó hội với
trỡnh độ trang thiết bị trung bỡnh, với trỡnh độ thành thạo trung bỡnh và cường
độ lao động trung bỡnh trong xó hội đó. a) Trỡnh độ thành thạo trung bỡnh tức
trỡnh độ nghề, trỡnh độ kỹ thuật, mức độ khéo léo của đại đa số người cùng sản
xuất mặt hàng nào đó. b) Cường độ lao động trung bỡnh là cường độ lao động
trung bỡnh trong xó hội, sức lao động phải được tiêu phí với mức căng thẳng
trung bỡnh, thụng thường. c) Điều kiện bỡnh thường của xó hội tức là muốn núi
dựng cụng cụ sản xuất loại gỡ là phổ biến, chất lượng nguyên liệu để chế tạo
sản phẩm ở mức trung bỡnh.
Cũng cần chỳ ý rằng, trỡnh độ thành thạo trung bỡnh, cường độ trung bỡnh, điều
kiện bỡnh thường của xó hội đối với mỗi nước, mỗi ngành là khác nhau và thay
đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thông thường, thời gian lao động xó hội cần thiêt gần sát với thời gian lao
động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của người sản xuất hàng hoá nào
cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường. Thời gian lao động xó hội cần
thiết là một đại lượng không cố định, do đó lượng giá trị hàng hoá cũng không
cố định. Khi thời gian lao động xó hội cần thiết thay đổi thỡ lượng giá trị của
hàng hoá cũng thay đổi.
Như vậy chỉ có lượng lao động xó hội cần thiết, hay thời gian lao động xó hội
cần thiết để sản xuất ra hàng hoá, mới là cái quy định đại lượng giá trị của
hàng hoá ấy.
2) Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá
Do thời gian lao động xó hội cần thiết luụn thay đổi, nên lượng giá trị của
hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào
năng suất lao động và mức độ phức tạp hay đơn giản của lao động
a) Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động được đo bằng lượng sản phẩm
sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng
trong thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hoá sản xuất ra tăng lên làm
cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá giảm xuống.
Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thỡ giỏ trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch
với năng suất lao động.
Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trỡnh độ khéo léo (sự
thành thạo) trung bỡnh của người công nhân; mức độ phát triển của khoa học,
công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất; trỡnh độ tổ chức
quản lý, quy mô và hiệu xuất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.
b) Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động có tác động khác nhau đối
với lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, nặng nhọc
của lao động trong cùng một thời gian lao động nhất định và được đo bằng sự
tiêu hao năng lực của lao động trên một đơn vị thời gian và thường được tính
bằng số calo hao phí trong một thời gian nhất định. Cường độ lao động tăng lên
tức là mức hao phí cơ bắp, thần kinh trên một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ
khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ lao
động tăng lên thỡ số lượng (hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và
sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng cũn lượng giá trị của một đơn vị
hàng hoá vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời
gian lao động.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau ở chỗ chúng đều
dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng
chúng cũng khác nhau ở chỗ tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng
hoá) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho lượng giá
trị của một đơn vị hàng hoá giảm xuống. Hơn nữa, tăng năng suất lao động có thể
phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật, do đó nó gần như một yếu tố có “sức sản
xuất” vô hạn; cũn tăng cường độ lao động tuy có làm cho lượng sản phẩm sản xuất
ra tăng lên, nhưng không làm thay đổi giá trị của một đơn vị hàng hoá. Hơn nữa,
tăng cường độ lao động phụ thuộc vào thể chất và tinh thần của người lao động,
do đó nó là yếu tố của “sức sản xuất” có giới hạn. Chính vỡ vậy, tăng năng suất
lao động cú ý nghĩa tớch cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.
b) Tính chất của lao động. Lao động giản đơn và lao động phức tạp
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bỡnh thường không cần phải
qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đũi hỏi
phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động
giản đơn. Tuy nhiên để tiến hành trao đổi hàng hoá, mọi lao động phức tạp đều
được quy thành lao động giản đơn trung bỡnh trờn cơ sở lao động phức tạp bằng
bội số của lao động giản đơn.
Đăng nhận xét