Câu
hỏi 17. Phân tích bản chất, nguồn gốc của tôn giáo?


Đáp. Câu trả lời gồm hai ý lớn

1) Phân tích bản chất của tôn giáo. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã
làm rõ bản chất của tôn giáo trên cơ sở xem tôn giáo là một trong những hình
thái ý thức xã hội, Ông viết, tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh
hư ảo- vào trong đầu óc của con người- của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần
thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.

a) Tôn giáo là sản phẩm của con ngựời, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
và lịch sử xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã
hội tiêu cực. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá phù hợp
với đạo đức, đạo lý của xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản,
chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân.

b) Tôn giáo được tạo thành bởi ba yêú tố cơ bản là ý thức tôn giáo (gồm tâm lý
tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo), hệ thống nghi lễ tôn giáo (trong đó hoạt
động thờ cúng là yếu tố cơ bản), tổ chức tôn giáo (thường có hệ thống từ trung
ương đến cơ sở). Vì vậy, tôn giáo là một lực lượng xã hội trần thế, có tác động
không nhỏ đến đời sống xã hội.

2) Nguồn gốc của tôn giáo:

a) Nguồn gốc kinh tế-xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tôn giáo ra đời
do trình độ lực lượng sản xuất thấp, kém đã làm cho con người không nắm được
thực tiễn những lực lượng tự nhiên, mà cảm thấy yếu đuối và bất lực trước tự
nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì thế, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền
lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên
của tôn giáo.

Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước
sức mạnh tự phát của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức
mạnh tự phát của xã hội hoặc của một thế lực nào đó của xã hội. Không giải
thích được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc lột, của những ngẫu
nhiên, may rủi, con người lại hướng niềm tin vào “thế giới bên kia” dưới hình
thức các tôn giáo.

b) Nguồn gốc nhận thức. Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con
người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Luôn có khoảng cách
giữa cái biết và cái chưa biết; bởi vậy, trước mắt con người, thế giới vừa luôn
là cái hiểu được, vừa luôn là cái bí ẩn. Do không giải thích được cái bí ẩn ấy
nên con người dễ xuyên tạc nó, điều gì khoa học chưa giải thích được, điều đó
dễ bị tôn giáo thay thế.

Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức của
con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách
quan, khái quát hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái
quát hoá, trừu tượng hóa đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con người
nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lạc hiện thực.

c) Nguồn gốc tâm lý là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý đến sự ra đời của tôn giáo.
Đặc biệt là những trạng thái tâm lý tiêu cực.

Trong cuộc sống, những trạng thái tâm lý mang tính tiêu cực như sự bất hạnh,
đau khổ, nỗi kinh hoàng, sợ hãi v.v dễ dẫn con người đến với tôn giáo để mong
được sự an ủi, che chở, giúp đỡ làm giảm nỗi khổ đau của con người trong cuộc
sống hiện thực.

Không chỉ vậy, những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan, vui sướng, mãn
nguyện v.v đôi khi cũng có thể là một nguyên nhân dẫn con người đến với tôn
giáo. Ngoài ra, các yếu tố như thói quen, truyền thống, phong tục, tập quán
cũng là những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành, duy trì và phát triển
niềm tin tôn giáo.


































































BÌNH LUẬN - ĐẶT CÂU HỎI

Mới hơn Cũ hơn