Câu
hỏi 25. Phân tích nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước? Những biểu hiện chủ yếu của nó?
Đáp. Câu trả lời gồm ba ý lớn
1) Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đầu thế kỷ XX,
V.I.Lênin chỉ rừ, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm 50 của thế ky
XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực tế rừ ràng và là
một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau
a) Tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thỡ tớch tụ và tập trung sản xuất càng
cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế lớn đũi hỏi sự điều tiết xó hội đối với
sản xuất và phân phối; lên kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách
khác, sự phát triển hơn nữa của trỡnh độ xó hội hoỏ lực lượng sản xuất đó dẫn
đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xó hội quản lý nền
sản xuất. Lực lượng sản xuất xó hội ngày càng cao càng mõu thuẫn gay gắt với
hỡnh thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đũi hỏi một hỡnh
thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển
trong điều kiện cũn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hỡnh thức mới đó là chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
b) Sự phát triển của phân công lao động xó hội làm xuất hiện một số ngành mà
các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc khụng muốn kinh doanh vỡ
đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu
hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ
bản v.v. Nhà nước tư sản đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho
các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
c) Sự thống trị của độc quyền đó làm sõu sắc thờm sự đối kháng giữa giai cấp tư
sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách
để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc
dõn, phỏt triển phỳc lợi xó hội v.v.
d) Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên
minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi
ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tỡnh hỡnh đó đũi hỏi phải cú sự
điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó không thể thiếu
vai trũ của nhà nước
đ) Việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xó hội
hiện thực và tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cũng
đũi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
2) Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ chế thống nhất nhằm
làm giàu cho các tổ chức độc quyền và giúp quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất do cuộc cách
mạng khoa học-công nghệ tạo ra.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Nó là sự thống nhất của ba quá trỡnh gắn bó chặt chẽ với nhau
là tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền; tăng vai trũ can thiệp của nhà nước
vào kinh tế; kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước
trong một cơ chế thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc
quyền.
V.I.Lênin chỉ ra rằng, “Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những
quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết kế kinh tế và chính trị ... đó
là biểu hiện rừ rệt nhất của sự độc quyền ấy”. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước, nhà nước đó trở thành một tư bản khổng lồ- cũng là chủ sở
hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như
một nhà tư bản thông thường. Điểm khác biệt là ở chỗ, ngoài chức năng một nhà
tư bản thông thường, nhà nước cũn cú chức năng chính trị và các công cụ trấn áp
xó hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù v.v Ph. Ăngghen cũng cho rằng nhà nước đó
vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước
ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thỡ nú
lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một kiểu quan hệ kinh tế, chớnh
trị, xó hội chứ khụng phải là một chớnh sỏch trong giai đoạn độc quyền của chủ
nghĩa tư bản. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trũ kinh tế nhất định đối với xó
hội mà nú thống trị, song ở mỗi chế độ xó hội, vai trũ kinh tế của nhà nước có
sự biến đổi thích hợp đối với xó hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản
chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở trên, ở ngoài quỏ
trỡnh kinh tế, vai trũ của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và
pháp luật. Ngày nay vai trũ của nhà nước tư sản đó cú sự biến đổi, không chỉ
can thiệp vào nền sản xuất xó hội bằng thuế, luật phỏp mà cũn cú vai trũ tổ
chức và quản lý cỏc xớ nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng
các biện pháp đũn bẩy kinh tế vào tất cả cỏc khõu của quỏ trỡnh tỏi sản xuất là
sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
là hỡnh thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trỡ sự
tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện
lịch sử mới.
3) Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp về con
người giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước; sự hỡnh thành và phỏt
triển của sở hữu nhà nước.
Sở hữu nhà nước hỡnh thành dưới những hỡnh thức sau +) Xây dựng doanh nghiệp
nhà nước bằng vốn của ngân sách. +) Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng
cách mua lại. +) Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân. +) Mở rộng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân. +) Sự can
thiệp của nhà nước vào các quá trỡnh kinh tế.
hỏi 25. Phân tích nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước? Những biểu hiện chủ yếu của nó?
Đáp. Câu trả lời gồm ba ý lớn
1) Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đầu thế kỷ XX,
V.I.Lênin chỉ rừ, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm 50 của thế ky
XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực tế rừ ràng và là
một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau
a) Tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thỡ tớch tụ và tập trung sản xuất càng
cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế lớn đũi hỏi sự điều tiết xó hội đối với
sản xuất và phân phối; lên kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách
khác, sự phát triển hơn nữa của trỡnh độ xó hội hoỏ lực lượng sản xuất đó dẫn
đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xó hội quản lý nền
sản xuất. Lực lượng sản xuất xó hội ngày càng cao càng mõu thuẫn gay gắt với
hỡnh thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đũi hỏi một hỡnh
thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển
trong điều kiện cũn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hỡnh thức mới đó là chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
b) Sự phát triển của phân công lao động xó hội làm xuất hiện một số ngành mà
các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc khụng muốn kinh doanh vỡ
đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu
hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ
bản v.v. Nhà nước tư sản đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho
các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
c) Sự thống trị của độc quyền đó làm sõu sắc thờm sự đối kháng giữa giai cấp tư
sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách
để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc
dõn, phỏt triển phỳc lợi xó hội v.v.
d) Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên
minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi
ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tỡnh hỡnh đó đũi hỏi phải cú sự
điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó không thể thiếu
vai trũ của nhà nước
đ) Việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xó hội
hiện thực và tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cũng
đũi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
2) Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ chế thống nhất nhằm
làm giàu cho các tổ chức độc quyền và giúp quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất do cuộc cách
mạng khoa học-công nghệ tạo ra.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Nó là sự thống nhất của ba quá trỡnh gắn bó chặt chẽ với nhau
là tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền; tăng vai trũ can thiệp của nhà nước
vào kinh tế; kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước
trong một cơ chế thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc
quyền.
V.I.Lênin chỉ ra rằng, “Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những
quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết kế kinh tế và chính trị ... đó
là biểu hiện rừ rệt nhất của sự độc quyền ấy”. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước, nhà nước đó trở thành một tư bản khổng lồ- cũng là chủ sở
hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như
một nhà tư bản thông thường. Điểm khác biệt là ở chỗ, ngoài chức năng một nhà
tư bản thông thường, nhà nước cũn cú chức năng chính trị và các công cụ trấn áp
xó hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù v.v Ph. Ăngghen cũng cho rằng nhà nước đó
vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước
ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thỡ nú
lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một kiểu quan hệ kinh tế, chớnh
trị, xó hội chứ khụng phải là một chớnh sỏch trong giai đoạn độc quyền của chủ
nghĩa tư bản. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trũ kinh tế nhất định đối với xó
hội mà nú thống trị, song ở mỗi chế độ xó hội, vai trũ kinh tế của nhà nước có
sự biến đổi thích hợp đối với xó hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản
chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở trên, ở ngoài quỏ
trỡnh kinh tế, vai trũ của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và
pháp luật. Ngày nay vai trũ của nhà nước tư sản đó cú sự biến đổi, không chỉ
can thiệp vào nền sản xuất xó hội bằng thuế, luật phỏp mà cũn cú vai trũ tổ
chức và quản lý cỏc xớ nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng
các biện pháp đũn bẩy kinh tế vào tất cả cỏc khõu của quỏ trỡnh tỏi sản xuất là
sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
là hỡnh thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trỡ sự
tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện
lịch sử mới.
3) Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp về con
người giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước; sự hỡnh thành và phỏt
triển của sở hữu nhà nước.
Sở hữu nhà nước hỡnh thành dưới những hỡnh thức sau +) Xây dựng doanh nghiệp
nhà nước bằng vốn của ngân sách. +) Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng
cách mua lại. +) Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân. +) Mở rộng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân. +) Sự can
thiệp của nhà nước vào các quá trỡnh kinh tế.
Đăng nhận xét